Là một đơn vị với quy mô nhỏ - vừa tại Việt Nam, sân khấu Hồng Hạc ra đời khá muộn - vào năm 2016 - với giám đốc nghệ thuật là đạo diễn Việt Linh, nhà biên kịch - đạo diễn điện ảnh có tiếng trước đó. Đầy bất ngờ khi cô quay trở lại với thị trường nghệ thuật Việt vào độ tuổi xế chiều, không phải bằng thứ ngôn ngữ nghệ thuật đã gắn liền với cô - điện ảnh -, mà bằng một hình thức sân khấu mang tính chất thể nghiệm, gần như lần đầu xuất hiện tại Việt Nam: Kịch đọc.

     [...] Trong khi nền kịch - nghệ thế giới đã phát triển mạnh mẽ các hình thức sân khấu và trình diễn hậu hiện đại, đương đại hay thể nghiệm thì môi trường nghệ thuật Việt vẫn chỉ mới tiếp cận những hình thức ấy. Trên cơ sở đó mà Kịch đọc, dẫu còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ, vẫn nên và đáng được đón nhận từ tệp khán giả Việt. 

     Trong giai đoạn ‘hậu vàng son’ của nền kịch nghệ Việt Nam, sự xuất hiện của Sân khấu Hồng Hạc đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc duy trì và phát triển bộ các môn nghệ thuật sân khấu, đặc biệt bằng con đường dấn thân thể nghiệm. Là một đơn vị với quy mô nhỏ - vừa tại Việt Nam, sân khấu Hồng Hạc ra đời khá muộn - vào năm 2016 - với giám đốc nghệ thuật là đạo diễn Việt Linh, nhà biên kịch - đạo diễn điện ảnh có tiếng trước đó. Đầy bất ngờ khi cô quay trở lại với thị trường nghệ thuật Việt vào độ tuổi xế chiều, không phải bằng thứ ngôn ngữ nghệ thuật đã gắn liền với cô - điện ảnh -, mà bằng một hình thức sân khấu mang tính chất thể nghiệm, gần như lần đầu xuất hiện tại Việt Nam: Kịch đọc

     “Với tiêu chí tiệm cận văn học và điện ảnh nhất có thể, một sân khấu tôn vinh cảm xúc.” - câu khẩu hiệu của Sân khấu Hồng Hạc, thể hiện rõ mục tiêu cũng như tham vọng mà đơn vị này theo đuổi. Trước hết, bằng cách chuyển thể tác phẩm văn học - thường là truyện ngắn - Sân khấu Hồng Hạc đã thể hiện rõ mong muốn nhấn mạnh tính văn học trong các sản phẩm của mình thông qua việc lựa chọn chất liệu nghệ thuật. Tuy nhiên, xét về tiêu chí “điện ảnh” thì đó vẫn còn là lời bỏ ngỏ, khi thực thế là hình thức Kịch đọc - mũi giáo của Sân khấu Hồng Hạc lại là một thể loại kịch không có ngôn ngữ thị giác. Để trả lời câu hỏi này, việc đào sâu vào vấn đề thể loại của Kịch đọc, từ đó xem xét đặc tính của chúng so với ngôn ngữ sân khấu truyền thống, lẫn ngôn ngữ điện ảnh là cần thiết. 

     Dẫu đã xuất hiện từ lâu tại các quốc gia châu Âu, mãi đến khi đạo diễn Việt Linh mang hình thức này về từ Pháp, Kịch đọc mới chính thức xuất hiện tại Việt Nam, ít nhất là với lớp khán giả đại chúng. Như tên gọi của nó, Kịch đọc là hình thức trình diễn kịch - nghệ mà các yếu tố về thị giác gần như bị loại bỏ triệt để. Các diễn viên sẽ trực tiếp đọc diễn cảm kịch bản kịch từ một không gian hoàn toàn tách biệt với khán giả, và các yếu tố bổ trợ cho việc truyền tải thông điệp chỉ có vỏn vẹn: âm nhạc và ánh sáng - phần lớn đến từ các đèn đánh màu rải rác chung quanh không gian. Như vậy, Kịch đọc xóa bỏ hầu hết vai trò của ngôn ngữ thị giác mà tập trung vào ngôn ngữ thính giác, sử dụng giọng đọc, âm nhạc, hay hiệu ứng âm thanh để trình diễn. Điều này khiến cho Kịch đọc, vốn phái sinh từ sân khấu kịch truyền thống, lại sở hữu hình thức và ngôn ngữ diễn đạt khác xa ‘mẹ’ của nó.

     Trong định nghĩa, lý thuyết đầu tiên về kịch - nghệ (hay thi ca), Aristotle cho rằng, thi ca (poetics) là hình thức mô phỏng đời sống, sử dụng các phương thức mô phỏng là nhịp điệu, ngôn từ hay hòa thanh. Nếu như xét trong hệ quy chiếu này, thì Kịch đọc vẫn được xem là hình thức gần gũi với ‘tiêu chuẩn thi ca cổ điển’. Tuy nhiên, cần phân biệt rõ ràng giữa phương thức mà Aristotle đề cập đến là dành cho các văn bản, hay kịch bản thi ca chứ không phải một trình diễn (performance). Tất cả các tác phẩm kịch chỉ được sống đời sống đúng nghĩa của chúng khi được dựng lên thành một trình diễn. Theo đó, yếu tố thị giác trong một màn trình diễn nói chung, hay kịch nói truyền thống nói riêng, vẫn là một đặc điểm cốt lõi. Như vậy, xét trong hệ quy chiếu lý thuyết của Aristotle thì Kịch đọc vẫn đáp ứng được các tiêu chuẩn như một văn bản (text); nhưng lại thiếu mất đặc điểm quan trọng khi xét Kịch đọc trong tương quan với kịch nói, như một tác phẩm trình diễn. Đặc điểm này đặt ra thách thức lớn cho các cá nhân thực hành Kịch đọc: Họ sẽ làm gì để ‘bù đắp’ lại khoảng trống mà sự thiếu đi ngôn ngữ thị giác để lại? Đối với hầu hết các đơn vị sản xuất kịch nói đương đại tại Việt Nam, những thủ pháp như: biểu cảm thậm xưng, ra bộ; hay yếu tố như: cảnh trí, phục trang vẫn đóng một vai trò tối quan trọng. Sức nặng mà trước đây cả ba phương thức: Ngôn từ, Giai điệu và Cơ thể cùng nhau sẻ chia; thì đối với Kịch đọc, được đặt hẳn lên Ngôn từ và Giai điệu. Điều này đồng nghĩa với lối hành văn, triển khai các đoạn hội thoại và kỹ thuật xử lý âm thanh trong một vở kịch đọc phải đạt được tiêu chuẩn thẩm mỹ tối đa. Đương nhiên, khi chúng ta không sử dụng một số giác quan của mình, khả năng của những giác quan còn lại sẽ được đẩy đến cực hạn. Quy luật này không loại trừ đối với trải nghiệm thưởng thức Kịch đọc của chúng ta. 

     Ở mức độ chi tiết hơn, lời thoại của các nhân vật trong suốt vở diễn phải ‘thực tế’. Khác với cách văn học hay hội họa tái trình hiện (represent) đời sống, điện ảnh và sân khấu tái trình hiện đời sống thông qua nhiều phương thức, trong đó có ngôn từ kết hợp với âm thanh. Trừ khi tác phẩm thuộc Chủ nghĩa Siêu thực (Surrealism) thì các lời thoại buộc phải mang đến cho khán giả một cảm thức chân thật và gần gũi về đời sống. Nó không được quá ‘giả’! Đó là vấn đề ở phần kịch bản - biên kịch. Còn đối với diễn viên, thay vì có biểu cảm khuôn mặt và các kỹ thuật ra bộ của cơ thể để hỗ trợ thể hiện cảm xúc - trạng thái nhân vật, thì giờ đây các nghệ sĩ phải tận dụng giọng nói. Nghĩa là cách nhấn nhá, phát âm từ ngữ; kể cả âm thanh cung bậc cảm xúc: cười, khóc, rưng rưng hay mừng rỡ cũng phải thật ‘chính xác’. Như vậy, so với một vở diễn của kịch nói truyền thống, thì Kịch đọc mặc dù khác về phương thức - thiếu yếu tố thị giác - nhưng tương đồng về mục tiêu: mô phỏng hay tái trình hiện đời sống/ý niệm. 

     Trong mối quan hệ với ngôn ngữ điện ảnh (NNĐA), thì thể loại Kịch đọc càng biểu lộ rõ sự khác biệt. Nhiều luồng ý kiến cho rằng NNĐA là “phương tiện biểu đạt hiệu quả nhất, trực tiếp nhất và phổ biến nhất” vì nó tái trình hiện cuộc sống, tư tưởng và ý niệm thông qua hình ảnh. Theo cách nói đơn giản, điện ảnh chính là hiện thực (reality) được xây dựng lên, thu vào máy ảnh và phóng chiếu lên màn hình. Do đó, trong điện ảnh, các kỹ thuật và yếu tố liên quan đến hình ảnh, thị giác là quan trọng nhất. Một trong bốn kỹ thuật cơ bản, nền tảng trong thực hành điện ảnh là dàn cảnh, lấy cảnh quay, dựng phim và âm thanh. Nếu vậy, thì ngôn ngữ Kịch đọc chỉ có thể giao cắt với NNĐA tại một điểm: âm thanh. Lý do tại sao NNĐA được cho là loại ngôn ngữ nghệ thuật đạt được hiệu quả tái trình hiện hiện thực cao nhất, chính là vì nó sử dụng các kỹ thuật thu và phát hình ảnh. Không giống như Kịch đọc, tạo nên một hiện thực trong trí tưởng tượng của khán giả qua giọng nói và hiệu ứng âm thanh; điện ảnh phô diễn chính cái hiện thực đó. Vì vậy, các hiện thực mà Kịch đọc khơi gợi ra có khả năng xê dịch, biến đổi nhiều hơn đối với mỗi khán giả khi so sánh với điện ảnh. 

     Thể loại Kịch đọc cho tới thời điểm hiện tại, trong không gian nghệ thuật Việt, vẫn còn là một hình thức mang nhiều tính thể nghiệm, xa lạ và mới mẻ với khán giả đại chúng. Khó có thể nói nó có khả năng thay thế, vượt trội hay thậm chí tương đồng với kịch nói và điện ảnh. Vốn dĩ các thể loại nghệ thuật, giống như những đường ray song song chạy cạnh nhau, không để phân biệt cao - thấp mà tự chúng sẽ tạo nên những hiệu ứng riêng cho người xem - độc giả. Ưu điểm của Kịch đọc, có lẽ, nằm ở quy mô của nó. Dựng một vở kịch đọc đòi hỏi ít công sức, thời gian và chi phí hơn so với dựng một vở kịch nói. Vì tính linh hoạt này mà Kịch đọc rất có thể sẽ trở thành một thực hành dễ tiếp cận đối với các đơn vị nhỏ - vừa; hoặc đơn giản là có khả năng phổ biến rộng rãi, liên tục. Trong khi nền kịch - nghệ thế giới đã phát triển mạnh mẽ các hình thức sân khấu và trình diễn hậu hiện đại, đương đại hay thể nghiệm thì môi trường nghệ thuật Việt vẫn chỉ mới tiếp cận những hình thức ấy. Trên cơ sở đó mà Kịch đọc, dẫu còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ, vẫn nên và đáng được đón nhận từ tệp khán giả Việt. 

Nguồn tham khảo: 

  1. Thi ca luận, Aristotle. NXB Đà Nẵng, Books Hunter.

  2. http://vanhoanghethuat.vn/ngon-ngu-dien-anh-va-moi-quan-he-voi-cac-loai-hinh-nghe-thuat-khac.htm